Tuesday, August 18, 2015

Cô giáo Võ Thị Thanh Hải: Quá khứ đầy nghiệt ngã

Aug 18, 2015   Dân Làm Báo



Huỳnh Anh Tú (Danlambao) - Trời Sài Gòn đổ mưa, nhưng chúng tôi vẫn đến thăm cô giáo Võ Thị Thanh Hải như đã hẹn. Lần đầu gặp gỡ, chúng tôi đã cảm nhận được sự thân thiện, ấm cúng như người trong một nhà. Tuy không nói ra nhưng tôi biết cả chị Dương Thị Tân và anh Trần Bang đều giống như tôi, rất cảm khái với tuyên bố của cô giáo Hải: "Bằng lương tâm và trách nhiệm của một nhà giáo chân chính, tôi tuyên bố sẽ không khuất phục và sẽ tham gia vào công cuộc tranh đấu cho nhân quyền và quyền lợi của học sinh nghèo..."

 Từ trái qua: chị Dương Thị Tân, cô giáo Võ Thị Thanh Hải và anh Trần Văn Bang 
Cô giáo Hải mồ côi cha từ lúc mới lên một tuổi. Sau này nghe mẹ kể lại, cha cô từng là lính Việt Nam Cộng Hòa thuộc sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Ông đã tử trận tại Vĩnh Bình (nay là Trà Vinh) vào năm 1968. Bỏ lại người vợ 28 tuổi cùng 5 đứa con thơ. 
Sau ngày “giải phóng”, cô thường hay bật khóc mỗi khi xem những thước phim có cảnh Mỹ dội bom lên miền Bắc, gây nên sự chết chóc, tang thương. Cô tâm sự với chúng tôi: “Vì xem qua nhiều những bộ phim như thế và đọc sách ở nhà trường tôi cảm thấy mình phải có trách nhiệm hơn đối với đất nước. Khi học đến trung học, tôi quyết tâm phấn đấu vào đoàn, thậm chí ước mơ cao hơn nữa, sau này sẽ là một đảng viên đảng Cộng Sản, để thực hiện theo lời dạy của “bác Hồ” – xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp hơn” 
 Cô giáo Võ Thị Thanh Hải - trên gương mặt lúc nào cũng nở nụ cười tươi xinh 
Nhưng “sự đời không đẹp như mơ”. Trưởng thành hơn một chút, cô đã hiểu ra những gì cô từng được dạy, được học, được thấy, được nghe đều không phải sự thật. Đất nước Việt Nam sau ngày “giải phóng” đã trở thành một đất nước nghèo hèn, lạc hậu. Những kẻ có quyền có chức cấu kết nhau bóc lột người dân. Và giá trị của người dân Việt Nam ngày càng bị coi rẻ. 
Cô giáo Hải kể cho ba chúng tôi nghe câu chuyện thương tâm xảy ra trong lớp học do cô phụ trách 5 năm về trước. Cho đến nay, cô giáo Hải cũng không lý giải nổi vì sao các cậu bé non nớt chỉ mới học lớp ba (8 tuổi) lại có thể đối xử “ác” với nhau như thế. Trong giờ giải lao, sáu học sinh cùng lớp do cô chủ nhiệm đã khênh bạn lớp trưởng, ném vào thùng rác rồi đậy nắp lại. Rất may khi ấy cô đi ngang qua nên kịp thời cứu em học sinh. Đứng trước hành động quá dại dột của sáu học trò có thể gây nguy hại đến tính mạng của một học trò khác, cô giáo không thể không dạy dỗ và trách phạt. Sau khi bế cậu bé lớp trưởng ra khỏi thùng rác với thân thể run cầm cập và vẻ mặt sợ xanh lét vì kinh hoàng sợ hãi, cô giáo Hải đã yêu cầu sáu em đứn trước mặt cô rồi dùng chiếc thước kẻ nhựa vụt vào lòng bàn tay các em để cảnh cáo.  
Chỉ vì hành vi cảnh cáo đó, cô Hải bị kiện. Cô cho rằng, Ban Giám Hiệu trường Nguyễn Văn Trỗi đã tác động đến những phụ huynh của các em đó để kiện cô trong khi không nhắc gì tới hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra nếu cô không cứu kịp em học trò kia. Kể đến đây, mắt cô giáo Hải rưng rưng. Chúng tôi hiểu sự chịu đựng, uất ức được dồn trong những năm làm cô giáo dưới mái trường Xã hộ chủ nghĩa. Cuối cùng cô bị Ban Giám Hiệu nhà trường xét duyệt và kỷ luật bằng hình thức hạ xuống hai bậc lương. Không cam chịu nỗi oan ức cô phải làm đơn khiếu nại lên Phòng Giáo dục quận 2. Kết quả, vì vụ kiện cô lại được thêm quà “khuyến mãi” là lời đe dọa của ông trưởng phòng giáo dục Hứa Ngọc Thảo: 
“Nếu cô rút đơn khiếu kiện thì mọi việc trở lại bình thường. Còn như cô muốn nộp đơn cứ khăng khăng đòi xử lý thì nhưng theo qui định cô phải thôi đứng lớp dạy mà chuyển về Phòng (phòng giáo dục quận 2) cho đến khi nào vụ việc được sáng tỏ.. Vả lại thời này chúng tôi chưa rảnh để giải quyết.” 
Giải quyết cách đó coi như bị “đì”, ngồi chơi xơi nước, chờ nghỉ việc. Cô Hải cười buồn. 
Không vì lời đe dọa đó làm cô chùn bước, cô chấp nhận thôi đứng lớp và quyết đấu tranh cho đến cùng. Cô viết bài gửi cho một số tòa soạn báo như Thanh Niên, Phụ Nữ để lên án sự bất công đang diễn ra nơi nhà trường cô đang dạy. Gần 1 năm sau vì báo chí đã phanh phui vụ việc này ra trước công luận nên Phòng giáo dục quận 2 mới nhượng bộ, trả cô về trường để đứng lớp dạy trở lại. 
Cô nói với chúng tôi ngành giáo dục của nước nhà đến nay xuống cấp trầm trọng. Đạo đức nghề nghiệp cùng lương tri nhà giáo dần bị đồng tiền tha hóa hết rồi. Và chính bản thân cô cũng từng bị rơi vào vòng xoáy thối nát này, cô ngậm ngùi kể thêm: 
“Cách đây hơn một năm, tại lớp bán trú tiểu học, mười mấy em học sinh bị ngộ độc thức ăn. Thay vì đưa các em đi cấp cứu liền, nhưng ông hiệu trưởng vì sợ bị ảnh hưởng đến uy tính nhà trường nên ra lệnh cho chúng tôi không đưa các em đi đâu cả. Ông ta còn nói rằng: “chút nữa sẽ khỏi.” 
Thật kinh khủng khi bất lực chứng kiến các em đứa thì mặt xanh ói mửa, đứa thì tím tái miên man, đau đớn vật vã. Cô giáo Hải cùng các đồng nghiệp của mình lúc đó chỉ biết khóc, dỗ dành các em chứ không dám “vượt rào” đưa các em tới bệnh viện. 
Đến chiều các phụ huynh đến đón các cháu về mới hay con mình bị ngộ độc mà không được đưa đi cấp cứu.Cô giáo Hải lại “được” tận hưởng những lời đay nghiến, buộc tội và miệt thị. Lúc này, cô buộc phải nói ra sự thật những gì ông hiệu trưởng ra lệnh hồi sáng. Ông hiệu trưởng lẩn tránh trách nhiệm và đưa cô phó hiệu trưởng ra “ đỡ đạn.” 
Vì thương yêu các em học sinh và cũng muốn phản đối hành vi vô đạo đức của ông hiệu trưởng, cô Hải đã viết bài nói về những sự thật xấu xa này, nhờ tòa soạn báo Thanh Niên đăng tin bài để cho tất cả công chúng cùng biết sự việc.  
Một người bạn cô Hải làm trong tòa soạn đã rất nhiệt tình và hẹn sẽ đăng bài viết của cô sớm nhất. Nhưng mãi tuần sau không thấy bài viết xuất hiện và cô Hải nhận được thông báo từ người bạn rằng “tòa soạn đã từ chối”. Anh bạn còn cho biết, chủ nhiệm biên tập tòa soạn có quen biết ông hiệu trưởng trường Nguyễn Văn Trỗi, nên họ muốn “giữ thể diện cho nhau” nên không thể đăng bài viết của cô.  
Về phía nhà trường, cô lại bị ông hiệu trưởng vở trách, hăm dọa đủ điều vì cô dám “vạch lưng cho người khác xem thẹo.” 
Trở lại câu chuyện Facebook gần đây, cô nhắc lại câu chuyện vừa qua có làm việc với ông Long tại công an phường Bình Trưng Tây. Ông Long hỏi: “tại sao cô đang sống trong chế độ này mà không đưa những hình ảnh chế độ này lên, cô cứ gợi lại hình ảnh VNCH đã chết từ lâu?” Cô trả lời: 
“Tôi nghĩ chế độ này có gì tốt đâu mà đưa. Công an thì đánh người, ông nghị bà nghị không dối trá cũng thụ động, dân oan bị cướp đất khắp nơi và rất nhiều sự bất công khác đang tồn tại. Còn với phía chế độ VNCH tuy ngắn ngủi, nhưng người dân đã được hưởng không khí tự do, dân chủ thực sự”. 
Mỗi khi lên mạng tìm về quá khứ lịch sử chế độ VNCH, cô rất vui sướng và lấy làm tự hào vì cô đã nhìn thấy hình ảnh oai hùng của cha mình cùng đồng đội đang hiên ngang xông pha ngoài mặt trận để bảo vệ lấy nền tự do, dân chủ cho quê hương mình. 
Cô giáo Hải tâm sự: 
“Tuy cha tôi cũng như những chiến sĩ VNCH đã chết đi, nhưng tôi tin chắc họ vẫn luôn sống mãi trong lòng của người dân Việt Nam này.” 
Trước lúc chia tay cô gởi lời cám ơn đến tất cả mọi người đã quan tâm và đồng cảm với mình. Cô chia sẻ: 
“Thanh Hải rất vui và vững lòng hơn khi được mọi người hiểu và quan tâm về nỗi oan của Thanh Hải. Phải nói thật sự, lần đầu tiên Thanh Hải được rất nhiều người từ trong nước lẫn ngoài nước đồng cảm và luôn hướng về Thanh Hải. Thanh Hải thật sự cảm động với những món quà tinh thần đó. Chính những món quà tinh thần đó sẽ giúp cho Thanh Hải luôn vững vàng trên con đường đấu tranh cho Tự do, Dân Chủ, Nhân Quyền, cho học sinh nghèo Việt Nam”. 
Chia tay cô giáo Thanh Hải, ba chị em chúng tôi ra về với một niềm cảm mến, bịn rịn. Hy vọng, sẽ còn nhiều những nhà giáo dám đứng lên chống lại cái ác, cái xấu và dấn thân vào cuộc đấu tranh đòi quyền con người như các cô giáo Thanh Hải, Đào Thu, Huỳnh Thị Xuân Mai, các thầy giáo Nguyễn Thượng Long, Vũ Hùng, Đỗ Việt Khoa, Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Anh Dũng… Họ thật sự là những người khiến chúng ta còn muốn hy vọng và tin tưởng vào những người thầy trong một xã hội đầy bất công này. 
 Từ trái qua: Huỳnh Anh Tú, chị Dương Thị Tân, cô giáo Võ Thị Thanh Hải và anh Trần Văn Bang 
 
 
18/8/2015 
Huỳnh Anh Tú danlambaovn.blogspot.com 
Cô giáo Võ Thị Thanh Hải: Tôi sẽ không khuất phục và sẽ tham gia vào công cuộc tranh đấu cho nhân quyền và quyền lợi của học sinh nghèo 

Source: Dân Làm Báo

Saturday, July 4, 2015

Văn học Việt Nam dưới ách cai trị của đảng cộng sản

Kính thưa ban tổ chức!

Kính thưa bà con, cô, bác, anh, chị, em có mặt trong hội trường hôm nay!

Thưa toàn thể các bạn đồng nghiệp yêu quý của tôi!

Trong 30 thứ tang mà đảng cộng sản giành cho dân tộc Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975( từ vượt biển, ép dân đi kinh tế mới, đổi tiền, đánh tư sản mại bản, xua người dân vào cái đũng chật hẹp của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa “bao nhiều, cấp ít” v.v )…thì văn học cũng bị bức tử không thương tiếc, trở thành niềm thương, nỗi nhớ, sự đau đớn, xót xa cho những người hiểu biết, có lương tri thời đại, đặc biệt là có lương tâm văn học.




Nhà văn Trần Khải Thanh Thủy

Nếu coi xã hội Việt Nam là một cái vi tính khổng lồ, gồm hai phần chính là “ổ cứng” và “ổ mềm”, thì phần “ổ cứng” bao gồm sông hồ, rừng núi, biển đảo, tài sản, tài nguyên thiên nhiên v.v còn “ổ mềm” chính là nền văn hóa của xã hội Việt Nam hiện tại.

Trong chiến tranh, bàn tay các đồng chí nhuốm máu đồng bào mình theo khẩu hiệu nằm lòng, sặc tanh mùi máu: “Cơm xào thịt giặc mới ngon. Canh chan máu thù thì lòng mới cam” nên trong thời bình, bàn tay các đồng chí tiếp tục tàn sát đồng bào mình qua các công cuộc , cướp bóc, bắt bớ, bán chác v.v Bán từ kho vũ khí Long Bình đến thềm lục địa. cùng bao nhiêu tài sản thiên nhiên của đất nước. Từ đất hiếm( chứa nhiều kim loại quý) cho Nhật Bản, dầu thô cho Nga, rừng đầu nguồn, Bô xit Tây nguyên, vỉa than lớn nhỏ cho Tàu, bãi biển cho Hồng Kông, nhà máy, cơ xưởng cho Đài Loan, Hàn Quốc v.v Chưa kể bao nhiêu người nằm vật vờ trên sóng nước, trên con đường vượt biển. Bao nhiêu sĩ quan Cộng Hòa chỉ còn là những nắm xương di động trên mặt đất hoặc xương khô trong mả. Nhiều gia đình bằn bặt tin cha, anh, chồng, khi tìm vào trại thăm nuôi, chỉ còn một cách duy nhất là thuê người đào trộm mộ đem nắm xương khô cô quạnh về lại quê nhà. Nghĩa là từ “cải tạo” thành cải táng, cải mả (Người chịu đựng được 3 tháng, người 1 năm, người 20 năm )… Hàng triệu người đã chết trong các trại tập trung trá hình vì không chịu nổi sự bạo hành tàn tệ của bè lũ cán bộ, sự khắc nghiệt của thời tiết nơi rừng sâu nước độc. Chính vì thế, dưới sự cai trị nham hiểm bậc thầy của đảng cộng sản, tất cả những gì thuộc về “ổ cứng” đều bị trầy vi xước vẩy, móp méo, biến dạng, thể hiện rõ nét qua những điều chúng ta đã và đang nhìn thấy ở Việt Nam trong vòng 40 năm qua.

Bởi văn hóa là “phần mềm” trong cơ thể xã hội, nên cũng như “phần cứng” trong chiếc vi tính khổng lồ gồm 90 triệu người( tạm coi là 90 triệu linh kiện), văn hóa cũng bị bầm dập, bóp nát. Giữa thời hội nhập toàn cầu đầu 2015, Hà Nội từ một thành phố 4000 năm văn hiến trở thành thành phố vô văn hóa. Cụ thể văn hóa giao tiếp không, văn hóa giao thông không, văn hóa xã hội lại càng không, bởi trên môi người dân Hà Nội nào, từ thằng bé 5 tuổi đến các ông già, bà cả 60, 70 cũng tươi roi rói tiếng chửi, câu thề, nói lóng, nói trại. Giao thông hỗn độn chưa từng thấy, tất cả tràn ra đường, tranh cướp nhau từng cen ti mét đất, hễ người này sơ ý chạm vào xe người kia là có tiếng chửi: – “Đ.m mày, thích rúc vào đít ông à?”. Còn nếu là phụ nữ thì tiếng chửi nanh nọc hơn: -“Thằng mặt…” Ngay sau đó là một đám chen lấn xô đẩy, người ta sẵn sàng quẳng xe xuống lề đường để xông vào cô gái kia, làm một việc vô cùng vô văn hóa là tụt bằng được quần cô ta để chứng minh những lời cô vừa nói xem mặt của người bị chửi, có giống“mặt dưới” của cô ta không?

Còn Sài Gòn, từ Hòn ngọc Viễn đông trong thời Việt Nam Cộng Hòa trở thành điểm đen, đất dữ trong thời cộng sản, không những với người dân trong quốc nội còn là nỗi ám ảnh kinh hoàng của Việt Kiều và du khách nước ngoài với tỷ lệ tội phạm tăng vọt chưa từng thấy. Những hình ảnh mà 40 năm trước người dân Sài Gòn chưa từng phải chứng kiến thì hiện tại nhan nhản trên đường phố. Nhiều cặp vợ chồng du khách, mặt nhợt nhạt, miệng méo xệch, ngực đeo tấm biển: -“Tôi là người nước ngoài , bị kẻ cắp lấy toàn bộ tài sản, vật dụng, tiền bạc, giấy tờ…Xin chỉ đường cho tôi tới đại sứ quán của nước tôi để xin cấp lại visa và ứng tạm ít tiền về nước”. Nhiều cháu bé buổi sáng còn chào ba mẹ đi học, mắt long lanh, miệng mỉm cười mà đêm về đã thành cái xác không hồn vì bị ăn cắp nội tạng từ tim, gan, thận v.v

Vì thời gian có hạn xin nói về nền văn học Miền Bắc sau 70 năm cai trị của Đảng Cộng Sản, bởi ai cũng biết, văn học là một phần quan trọng trong “ổ mềm” văn hóa nước nhà.

Ngay từ 1945 sau khi cướp được chính quyền từ tay nhân dân, đảng cộng sản đã coi Văn Nghệ như một thứ công cụ chính trị để mị dân, trấn áp người tài để bóp nghẹt tự do ngôn luận. Chính vì vectơ chuyển động của đảng cộng sản về phía cái ác, cái xấu và cái dốt nên bốn tiêu chuẩn đặc trưng của lãnh đạo cộng sản Việt Nam là: Nhất dốt, nhì tham, tam ngông tứ độc. Tất cả các nhà văn nếu không chịu tuân theo các tiêu chuẩn này thì dù tác phẩm có hay đến mấy cũng bị bóp nghẹt từ trong trứng.

Nhà văn, nghệ sĩ, thay vì sinh ra để phụng sự chân, thiện, mỹ, để nói thật, tạo động lực cho xã hội phát triển cũng là tạo ra cho xã hội loài người những di sản đẹp thì đảng bắt họ còng lưng, quỳ gối, uốn ba tấc lưỡi để nói những điều dối trá, triệt tiêu chân lý, đến mức người dân phải sửa thơ Phùng quán từ 60 năm trước để đau đớn thốt lên: “Đem bục công an đặt giữa trái tim người. Tình cảm ngược xuôi theo luật côn đồ đảng , bác”

Vụ án Nhân văn Giai phẩm năm 1957 thực sự là một cuộc cải cách chữ nghĩa long trời lở đất. Thay vì các bần cố nông lên đấu tố địa chủ trong cải cách ruộng đất rồi bắn chết họ thì cuộc cải cách chữ nghĩa còn để lại di họa hàng trăm năm.

Nhà thơ Lê Đạt phải lao động cải tạo một ngày 2 khối đất, làm từ 6 giờ sáng đến hai giờ đêm, cả tháng trời không một giọt nước tắm, người hôi hám như súc vật, chưa kể còn bị cấm cầm bút 30 năm. Nhà văn Nguyễn Hữu Đang bị biệt giam 25 năm ở cổng trời Hà Giang, không hề biết tới cuộc kháng chiến toàn diện, toàn dân do đảng cộng sản phát động trong vòng 21 năm. Ra khỏi tù chỉ được lĩnh 8 kg gạo mỗi tháng, không nhà cửa, không thực phẩm, không lương, phải ở nhờ trong trái bếp lợp rạ của khu tập thể giáo viên, đặt một cái vại để xin nước vo gạo của cả khu, gạn lấy nước đặc dưới đáy để quấy với nắm gạo thành cháo loãng thay cơm, phải bắt cóc, ngóe, rắn thay thực phẩm. Khi nào chết cố bò ra vũng đất nông cạnh búi tre thay mộ.

Khi bóng ma cộng sản gõ vào ngôi nhà nào thì điêu linh mở ra ở đó, đặc biệt gõ vào cánh cửa của ngôi đền văn học thì điêu linh biết bao nhiêu mà kể xiết. Sau 1975, hết chiến tranh văn học vẫn không được quyền sống cho riêng mình mà vẫn phải gồng mình lên làm nhiệm vụ theo cây gậy chỉ huy của Đảng: “Bắt câm mồm phải câm mồm, nếu kêu ca sẽ lìa hồn, văng thây”. Một cây bút nghiệp dư tại hội văn học nghệ thuật tỉnh Hòa Bình, một hôm làm bài thơ tả cảnh nhà sàn của đồng bào dân tộc, tất cả đều chỉn chu, mạch lạc, rõ ràng, chỉ câu kết của bài thơ: “Có hay đâu giá lạnh dưới chân sàn” lập tức bị coi là ám chỉ, động chạm đến ngôi nhà sàn của lãnh tụ tôn quý, thiêng liêng. Xúc phạm tới tình cảm cao đẹp của bác Hồ kính yêu với đồng bào dân tộc. Lập tức bị đuổi việc, đuổi khỏi hội nhà văn Hòa Bình, cắt hộ khẩu lên vùng kinh tế mới và chết mất xác nới rừng thiêng nước độc vì thung thổ khí hậu qúa khắc nghiệt , chưa kể mảnh bom, mảnh đạn, không hộ khẩu điện đường , trường học, trạm y tế, nước sạch v.v

Với số đông nhà văn ngoan ngoãn dễ bảo còn lại, đảng dùng giải thưởng còm cõi nhuốm màu chính trị, bè phái để mua lương tâm họ, bắt họ phải quên đi chính nghĩa rạng ngời của ông bà tiên tổ truyền lại từ bao đời.

Máu đổ một giây di họa đủ một đời, máu đổ suốt 21 năm trời ròng rã ( từ 1954-1975) thì di họa biết bao nhiêu mà kể xiết? Vậy mà đảng cứ thích “quang vinh, muôn năm” bắt nhà văn phải cầm bút ca ngợi thành tích ảo, chiến công ma, sự chỉ đạo mù quáng của đảng, chứ không được phép nói đến di họa của chiến tranh, như trường hợp của tác giả. Ngày 27-7- ngày thương binh liệt sĩ, còn gọi là “ngày bới xác, mò xương, đếm khăn tang và đong máu chiến hào” tôi viết một chùm ba bài: “Nước mắt chưa khô trên má mẹ hiền”. “Bão thổi không ngừng trong những vành tang trắng” và “Đêm đêm nhang cháy đỏ bàn thờ”. Lập tức bị “phơi mặt” trên truyền hình vì tội xúc phạm đến những tình cảm cao đẹp của nhà nước giành cho các bà mẹ Việt Nam anh hùng, đồng thời bị treo bút 6 tháng, đi khỏi báo cựu chiến binh, tịch thu thẻ nhà báo, cho dù sau đó ký hợp đồng với báo khác vẫn không được cấp thẻ.

Nếu viết về nỗi niềm củi lửa, cháo rau trong thời bình, cấm nhắc đến sự thiếu thốn của thời hậu chiến. Dù cả xã hội “run trong từng cọng rau”, lương cán bộ chỉ đủ sống mười ngày. Cô giáo sáng vào trường bán cháo phổi, tối vào nhà hàng rẻ tiền bán thân, kiếm sống bằng sự sa đọa, suy đồi của lũ khách ăn đêm . Thầy giáo một buổi dạy, hai buổi đạp xích lô kiếm cơm v.v Chuyện vỉa hè phải để lại vỉa hè, cấm được ngứa bút đưa lên mặt báo mà mang tội “bôi bác xã hội”, “không tin tưởng vào sự lãnh đạo tuyệt đối sángsuốt, uy tín của đảng”.

Nhà văn đứng về phía nước mắt ,vạt áo của nhà văn đong đầy nỗi khổ của dân nước trong thời hậu chiến. Từ chỗ “ra ngõ gặp anh hùng” thành “ra ngõ gặp ăn mày” vì “người người ra trận, nhà nhà ra trận”. “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Một tỉnh nhỏ như Thanh Hóa, Thái Bình vẻn vẹn 1,5 triệu dân mà có 4 vạn 6 bộ đội và thanh niên xung phong. Từ “kho cung cấp người trong chiến tranh” thành nghĩa trang liệt sĩ khổng lồ trong thời bình. Nếu may mắn không bị “Tổ Quốc cắt cơm, gia đình vắng vẻ”, thì cũng trở thành “Tổ quốc quên công gia đình đói khổ”…Thế mà phải im miệng, bẻ cong ngòi bút, coi nỗi khổ của dân, của mình là vùng cấm của đảng không được động đến vì “nhạy cảm”. Từ nhạy cảm đến vô cảm chỉ cách một bước chân, từ vô cảm đến tội ác, khoảng cách còn ngắn hơn nữa, nên chúng ta hiểu vì sao sau 40 năm cầm quyền trên phạm vi cả nước, Nhờ “sự hy sinh to béo” của đảng, nước ta lại có nhiều tội phạm đến thế? Ở Na Uy trung bình 100 nghìn người dân mới có 6 tội phạm, ở Hà Lan, nhiều nhà tù bỏ trống, còn ở Việt Nam đã xây tới 900 nhà tù lớn nhỏ (theo quy định 31 CP của chính phủ do thủ tướng Võ Văn Kiệt ký): “Mỗi quận, huyện được phép xây mới một nhà tù”. Vậy mà hiện tại vẫn thiếu chỗ ở cho 26 nghìn tội phạm hình sự. Xã hội suy đồi, tha hóa, khiến nhà văn Ma Văn Kháng – một cây “đại bút” của nền văn học xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải đau đớn thốt lên trong tác phẩm “Mùa lá rụng trong vườn” từ 1989:“Xã hội loạn lạc đến mức mỗi gia đình phải có trách nhiệm đóng góp cho xã hội từ một đến hai đứa con…hư hỏng”. Nhà nào càng đông nhân khẩu, mức đóng góp càng lớn, thậm chí có nhà 7,8 người bị bắt cả chùm luôn vì người buôn ma túy, người hút hít, người lừa đảo, trộm cắp, cờ gian bạc lận hay đâm chém, giết người v.v

Một xã hội không có sự phản biện là một xã hội chết, xã hội Việt Nam trong suốt 70 năm trị vì của đảng cộng sản thực sự đã chết lâm sàng vì làm người mà không được cất lên tiếng nói trung thực của mình, không được làm những việc mình muốn, ngược lại phải “sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gươngcon đầu đàn vĩ đại”. Nhà văn cũng vậy, đẻ ra tác phẩm không theo đúng cách thức của Ban Tư Tưởng Văn Hóa Trung Ương thì lập tức tác phẩm ấy sẽ bị đập chết bằng cách cấm đoán, thu giấy phép, cấm xuất bản, cấm đăng ký bản quyền v.v. Nếu trước đó đã chót “thai nghén”, không muốn đứa con tinh thần của mình rơi vào “lề trái” , “vùng nhạy cảm” hoặc “phản động” phải lập tức …nạo thai ngay lập tức

Lẽ ra theo đúng quy luật của sự sáng tạo: Tác phẩm rời nhà văn như con thuyền rời bến, tìm về bờ bến xanh trong và neo đậu vào bến bờ tâm cảm của người đọc, thì tác phẩm lại rơi vào vũng ao tù, nước đọng là các nhà xuất bản, cục xuất bản, Ban văn hóa tư tưởng Trung Ương, phòng PC25( chuyên phụ trách về văn hóa phản động) hoặc PC 35( cục phản gián) của bộ công an, bị các lưỡi dao kiểm duyệt của các biên tập viên, giám đốc, trưởng ban, trưởng phòng thẳng thừng cắt xén, trở thành nhợt nhạt, vô hồn không sức sống.

Bình thường ở các nước dân chủ tự do, nhà văn bình đẳng với Chúa trong việc sáng lập ngôn ngữ, thì ở Việt Nam, nhà văn buộc phải trở thành những “con chiên ngoan đạo” của cả bầy đàn lãnh đạo vô học dốt nát. Vì thế thay vì sinh ra để bảo vệ và phát triển văn hóa cũng như văn học theo quy định của luật pháp thì nhà văn bị bịt miệng vì luật rừng, luật chết quái gở độc địa, khai tử bao nhiêu đứa con trung thực, khỏe mạnh, theo sự chỉ đạo áp đặt của đảng.

Cả một nền văn học bị bức tử trở thành xanh xao, còi cọc, suy dinh dưỡng hoặc chết yểu trong bóng tối ngột ngạt, ám khí, ác độc của Đảng Cộng Sản. Ngược lại, chỉ những tác phẩm nhảm nhí , thiếu chất lượng , làm tổn hại đến thẩm mỹ của công chúng, cũng như làm tầm thường nền văn học nước nhà lại được phát triển ào ào như nấm độc sau mưa.

Một nền văn học chỉ toàn những kẻ vinh thân phì gia, vờ vịt, dối trá, tự nguyện tiếp tay ca tụng cái ác, cái xấu cái dốt rồi ăn không nói có , bợ đỡ, xu nịnh thì đó là văn học gì? Nếu không phải là sự khốn nạn, nhục nhã. Không ít tác giả nữ phải dùng “vốn tự có” của mình để làm ván bắc cầu nhảy xa, cùng quan lớn thừa hưởng sự giàu sang phú quý trên máu và nước mắt dân tộc. Hầu hết các tác giả nam phải quên nghèo khổ, bất công, tham nhũng, nước mắt người già, trẻ thơ hay nỗi đau quặn thắt của cha mẹ khi không có tiền cho con đến trường, phải đẩy con ra lề đường kiếm sống. Quên luôn cả các vết thương lịch sử đau đớn làm bao triệu người phải chết như “Cưỡng chiếm Miền Nam, đánh bắt các sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, bài xích, chèn ép vợ con họ, đẩy cả vạn triệu người lên khu kinh tế mới để chiếm nhà cửa ruộng vườn cho các quan lớn. Quên cả cuộc vượt biển kinh hoàng, làm chấn động toàn thế giới trong gần 3 thập kỷ từ giữa 70 đến 80, 90…

Bao nhiêu nhà văn sa đà vào việc mô tả tính dục rồi dùng phong bì lót tay để sách được nhà xuất bản, hội nhà văn tổ chức những đợt tuyên truyền quy mô, rầm rộ để nhận về những giải thưởng độc hại còm cõi như “Giải thường Hồ Chí Minh”; “Giải văn học về đề tài công an nhân dân” , Giải “Quốc phòng toàn dân” v.v

Nói tóm lại, có cả một chủ trương ngầm để dung tục hóa văn chương theo đúng vectơ chuyển động của đảng cộng sản, bốc thơm ca ngợi cái ác, cái dốt, cái xấu, khiến những nhà văn có tài, có lương tâm văn học mất chỗ đứng trong lòng độc giả, và văn học cũng tự đánh mất thiên chức của mình là đánh thức lương tri và khai sáng cho độc giả. Tiếc rằng những hành xử tinh vi và tàn độc này đã kéo dài 70 năm (với Miền Bắc) và 40 năm (với Miền Nam), biến hàng vạn nhà văn, nhà báo thành những kẻ “ăn theo, nói leo” hệt những coi rối bị giật giây. Bao nhiêu tác phẩm đích thực được các tác giả hoài thai trong đau đớn vật vã của tâm hồn, tình cảm trí não mình, bị cắt, xẻo xử trảm từ trong trứng nước. Những cuộc “nạo thai”, khai tử diễn ra hàng ngày, hàng giờ nơi đất nước mặt trời lặn, trong góc tăm tối cuối cùng của Thế Giới, khiến 93 triệu người dân thành một biển người dối trá. Dù nói ngược, nói xuôi, nói xưa nói nay , hay ám chỉ, vòng vo, cuối cùng cũng phải quay về giọng Đảng… Đó chính là bóng đêm nô lệ của một nền văn học nhồi sọ, phục vụ cho các nghị quyết, chính sách dốt nát, sai trái của Đảng. Cái xấu, cái ác, cái dốt được lên ngôi, cái đạo lý trung thực, công bằng bị bóp chết. Thật không còn gì để nói ngoài việc “thành kính phân ưu” với nền văn học nước nhà dưới sự cai trị kéo dài của Đảng Cộng Sản .

Cuối cùng xin dành lại thời gian cho người kế tiếp.

Cám ơn ban tổ chức đã tạo điều kiện cho tôi được phát biểu chính kiến, quan điểm của mình cũng như cám ơn toàn thể bà con, anh chị em đã chú ý lắng nghe.

Santa Ana April 17-2015

Trần Khải Thanh Thủy

(Tác giả gửi đăng)


THEO DÒNG SỰ KIỆN:
Đảng ký các hiệp định dưới mắt triết gia Trần Đức Thảo
Lê Hiếu Đằng: Cần cho lập thêm các đảng đối lập với đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chết
Đảng Cộng sản Việt Nam: Không khác băng đảng tội phạm có tổ chức
Tôi về Việt Nam đã nghe và thấy gì ở miền Nam sau 37 năm dưới chế độ Cộng sản
Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu: Dưới Cặp Mắt Công An Nhân Dân

Cộng sản ác ghê !

Tôi đã đọc bài “Địa chủ ác ghê” của C.B đăng trên báo Nhân Dân số ra ngày 20/7/1953 trong đó kể tội ác của địa chủ Nguyễn Thị Năm cùng với hai con trai là Nguyễn Hanh và Hoàng Công đã giết hại 260 nông dân bằng nhiều hình thức tra tấn dã man. Tác giả kết luận bài báo:

Viết không hết tội dù chẻ hết tre rừng
Rửa không sạch dơ dù tát cạn nước bể.

Tôi nghĩ đây không phải là bài báo mà chỉ là bài thống kê với những con số khô khan, vô hồn cùng những lời buộc tội vô căn cứ. Bài báo thiếu vắng những từ để hỏi trong Tiếng Anh theo lý thuyết viết báo: What, where, when, who, why.

Năm 2014 tôi được đọc bài báo “Chuyện về một người phụ nữ bị xử lý oan” đăng trên báo An ninh thế giới vào 2 ngày 12/3/2014 và 15/3/2014. Qua bài báo tâm huyết và truyền cảm của Xuân Ba ta thấy trái với bài của C.B cụ Nguyễn Thị Năm là người phụ nữ có tài kinh doanh, sống nhân hậu và có công với cách mạng. Cụ đã đóng góp cho cách mạng 800 lạng vàng. Hai con trai của cụ đều tham gia quân đội chống Pháp, đều là đảng viên, đều là sỹ quan khi còn rất trẻ. Trụ sở kinh doanh của hãng Cát Hạnh Long ở Đồng Bẩm, Thái Nguyên là nơi tập kết của sư đoàn chuẩn bị cho chiến dịch biên giới năm 1951. Nơi đây cũng là chỗ đi lại của một số cán bộ trung ương như Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Lê Văn Lương, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh…

Thế mà đến thời kỳ C.C.R.Đ hai ông Nguyễn Hanh và Hoàng Công đều bị bắt giam vì là con địa chủ gian ác và cụ Nguyễn Thị Năm cũng bị tử hình oan bằng hai viên đạn oan khiên…

Theo thống kê cuộc C.C.R.Đ đảng CSVN đã giết hại 72.000 người như cụ Nguyễn Thị Năm. Đây là sai lầm nghiêm trọng của đảng CSVN đối với lớp người có tài làm kinh tế và có công với cách mạng gây nên hận thù dân tộc mãi mãi không xoá được…

Vào thập niên 80 ở thế kỷ XX, đảng CSVN lại quyết định mở cuộc C.C lần thứ hai bằng QĐ176/HĐBT ngày 09/10/1989 để sa thải 855.000 lao động có công chiếm đoạt tiền đóng BH của họ từ trong chiến tranh ác liệt, cướp sổ hưu của họ bán cho người có tiền, gây thiệt hại quỹ hưu mỗi năm 660 tỷ (báo Đại đoàn kết). Đây là hình thức tham nhũng kép của ngành lao động – vừa móc túi người có tiền, vừa đục khoét ngân sách Nhà nước. Đây là “QĐ vắt chanh bỏ vỏ” xô đẩy 855.000 lao động có công ra ngoài lề xã hội tự kiếm sống nơi đầu đường xó chợ khi toàn bộ sức lực và trí tuệ đã cuồng nhiệt cống hiến cho cách mạng. Có người lao động đến 40 năm trong nhà máy cũng bị lừa “Xin về”. “Anh bộ đội cụ Hồ” Nguyễn Văn Cung ở xí nghiệp Dược Hải Dương sau 33 năm công tác trở thành kẻ ăn mày rồi chết ở nhà xác bệnh viện tỉnh Hải Dương. Ông Phạm Hữu Vinh là Việt kiều yêu nước vì ngộ nhận về xây dựng Tổ quốc, lao động quên mình ở xí nghiệp cơ khí đường thuỷ Hải Dương trở thành chiến sỹ thi đua 7 năm liền. Rồi bị lừa, bị sa thải ra đứng đường, mất chế độ nghỉ hưu sau 35 năm lao động rồi chết thảm hại ở nhà vì không có tiền, không có thẻ bảo hiểm y tế.

Theo QĐ176 một người bị sa thải chỉ được trợ cấp trên dưới 1.000.000 đồng (Một triệu đồng). Thế là hết! QĐ 176 cũng là môt sai lầm nghiêm trọng không kém sai lầm trong C.C.R.Đ là tàn ác hơn khi các tổ chức phi chính phủ trên thế giới đã tài trợ cho chính phủ Việt Nam 4 tỷ đô la để giải quyết “Tình trạng lao động dôi dư” nhưng họ không được chính phủ Việt Nam giải quyết lại QĐ 176 như dự tính từ năm 1997 ở TK trước.

Đảng CSVN chỉ ưu tiên cho lớp lao động trẻ về nghỉ theo NĐ 41/CP ngày 11/04/2002. Theo đó 1 lao động về nghỉ được trợ cấp trên dưới 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) và khi đủ tuổi lại được chuyển sang chế độ nghỉ hưu. Đảng CSVN đã gây nên bất công tàn nhẫn giữa 2 lớp người lao động trong khi Đảng hô to khẩu hiệu “Xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Lớp người có công bị sa thải, bị ngược đãi theo QĐ 176/ HĐBT. Ngược lại lớp người không có công được ưu đãi theo NĐ41/CP. Thế đó! Thế là “công bằng” theo cách gọi của Nhà Nước CSVN.

Năm 1998 một ông Bí thư tỉnh uỷ tỉnh Quảng Ninh khi về hưu mới dám nói sự thật “Biết họ bị lừa mà không làm sao cứu được”. Đánh lừa người lao động có công trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, cướp sổ hưu của họ là thấp hèn, bất nhân, là vô đạo vô luật của Đảng độc quyền. Phải dũng cảm nhìn vào sự thật tàn nhẫn này để sửa sai. Vì ngay từ năm 1991, khi nhận ra sự thật bị lừa nhiều người lao động đã can đảm viết đơn thư về bộ lao động kêu oan đòi giải quyết lại QĐ176. Bộ Lao động và Bộ Tài chính đã trả lời họ bằng công văn 3168/LĐ- TB-XH ngày 24/09/1993 với nội dung tuỳ tiện, vô luật, vô trách nhiệm, vô đạo: “Ai muốn trở lại làm việc chỉ được tính từ đầu”. Nghĩa là họ sẽ “nghỉ hưu” ở dưới suối vàng. Chỉ có Nhà nước CSVN mới có luật BHXH như thế. Ở các nước dân chủ văn minh, công dân đến tuổi 60 đều được Nhà nước nuôi dưỡng cho đến khi nhắm mắt xuôi tay. Hỏi chế độ nào ưu việt hơn?

Tiếng kêu oan của họ được dư luận đồng tình, công luận lên tiếng, nhiều đại biểu QH phát biểu qua nhiều kỳ họp QH. Đặc biệt một số cán bộ trung ương có lương tâm và trách nhiệm cũng lên tiếng bênh vực họ như ông Phan Văn Khải, ông Trần Đình Hoan, ông Cao Đức Hậu, ông Nguyễn Chí Hậu và bà Cù Thế Hậu.

Nhưng bất chấp dư luận, bất chấp công luận, bỏ ngoài tai những tiếng kêu oan của người có công, không nghe ý kiến của bậc đàn anh, bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Ngân tại kỳ họp QH năm 2008 đã trả lời đại biểu QH tỉnh Quảng Trị là: “KHÔNG GIẢI QUYẾT LẠI CHÍNH SÁCH 176”

Vì sao không giải quyết lại được QĐ 176 trong khi các tổ chức phi chính phủ đã tài trợ cho chính phủ Việt Nam 4 tỷ đô la từ thập niên 90 ở TK trước? Đảng cộng sản Việt Nam muốn duy trì sự bất công tàn nhẫn này như cải cách ruộng đất. Đảng cộng sản Việt Nam đã phủ nhận hai pháp lệnh của Nhà nước Cộng sản: Pháp lệnh về người có công và pháp lệnh về người cao tuổi.

Những lý do nguỵ biện của bộ trưởng không lọt vào tai những người hiểu biết: “ Việc đó lâu rồi”, “hồ sơ thất lạc”, “nhà nước mất 5.700 tỷ”, “người chết có được hưởng không”… Nội dung này không khác nội dung công văn 3168- LĐ-TB-XH ngày 24/09/1993. Tại sao có sự trùng hợp này? Vì đạt mục đích cướp công của người có công.

Tại sao cá nhân một uỷ viên trung ương Đảng lại quyết định một chính sách lớn về an sinh xã hội? Quyết định này ảnh hưởng đến chế độ BHXH của 855.000 người có công. Chỉ một lời tuyên bố mà các cơ quan quyền lực và chức năng phải nghiêm chỉnh chấp hành, dân oan phải câm họng, trí thức không dám phản biện. Có độc đoán, độc quyền, độc tài không?

Tàn ác và độc tài hơn, những ai phê phán cái QĐ176 bênh vực quyền lợi hợp pháp và chính đáng cho 855.000 người lao động có công đều bị trừng phạt theo pháp luật – luật rừng. Nhà báo Trần Quang Thành bị khai trừ khỏi Đảng, buộc thôi việc phải trốn ra nước ngoài; Ông Nguyễn Chí Hậu là cán bộ thanh tra chính phủ bị tai nạn xe máy trên đường đi công tác; tôi chỉ bức xúc viết mấy bài báo cũng bị khủng bố đàn áp suốt 27 năm qua. Công an và toà án kết hợp với chính quyền địa phương xử oan sai vụ án dân sự của gia đình tôi gây thiệt hại cho gia đình tôi hàng tỷ đồng, đẩy gia đình tôi vào góc chết cuộc sống. Vợ tôi sau 24 năm lao động cũng bị sa thải theo QĐ176. Tôi nghỉ mất sức lao động bị mất 2 bậc lương, không được trở lại công tác theo NĐ216/ CP năm 1986, tôi đi dạy hợp đồng cho giáo viên 5 trường chuyên nghiệp không được hưởng chế độ hưu. Nay ở tuổi 76 không có nhà ở vẫn phải đi làm thêm kiếm sống. Hỏi rằng chúng tôi có quyền con người không?

Với bài viết này đảng CSVN cần liên hệ đến 2 câu thành ngữ rất hay của dân tộc ta để xem xét nỗi oan của lớp người có công: “Chết cũng chưa hết nợ”, “Mũi dại lái chịu đòn”.

Đảng CSVN là người cầm lái vĩ đại con thuyền cách mạng Việt Nam phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về những việc làm sai trái của cán bộ có chức có quyền trong bộ máy công quyền Nhà nước CSVN. Hiện nay, cái ác đang lấn át cái thiện do chính bọn tư bản Đỏ man rợ gây ra đang làm khổ dân, đang làm sói mòn lòng tin của dân vào Đảng và làm mất uy tín của Đảng.

Mong được các cơ quan có thẩm quyền trả lời cái tít bài báo này bằng hành động cụ thể, thực hiện chủ đề của IPU lần thứ 132 do chính Việt Nam đề xuất là “Đảm bảo quyền con người”, “Biến lời nói thành hành động”.

PHẠM TUẤN XA

Nhà giáo – Dân oan (Hải Dương)



Thursday, February 26, 2015

Về với mẹ


Không về ư? Ai bảo không về?
Bốn chúng con hôm nay đều có mặt
Thằng cả: Hương Điền, thằng hai: Ấp Bắc
Thằng ba: Đồng Xoài, thằng út: Núi Thành

Chúng con về tất cả vẫn đầu xanh
Như buổi ra đi vẫn thích làm nũng mẹ
Vẫn thích giọng ầu ơ... như hồi tấm bé.
Chúng con vui, sao mẹ lại buồn?

Mẹ dọn bàn thờ, mẹ đốt lò hương
Mẹ vái lạy. Trời ơi! Sao lại thế?
Đúng đạo lý con phụng thờ cha mẹ
Can cớ gì mẹ cúng thờ con?

Ôi thời gian! Sắt đá vậy thời gian
Không cho mẹ quên nỗi đau se thắt,
Thuở chúng con ngực găm đạn giặc
Không đau bằng nghe mẹ nức hôm nay.

Mấy chục năm rồi, đau ngày một, ngày hai
Đừng khóc nữa, mẹ ơi! Đừng khóc nữa!
Chúng con biết quay về khi mẹ hiền đợi cửa
Trong khói hương, trong gió lay rèm...

Chúng con về đủ mặt bốn anh em
Dù có phải ngăn sông, cách núi
Dù thân thể đã pha hòa gió bụi
Hồn vẫn về... mẫu tử tình thâm.
Chẳng bao giờ mẹ xa cách chúng con

Đừng khóc nữa
Mẹ ơi
Đừng khóc nữa!


Tác giả:  Nguyễn Phước Ưng Hòa 
(Bị cộng sản thủ tiêu năm Mậu Thân 1968 trong lúc về nghỉ phép với gia đình ở Huế)



Mai vàng bon sai














Mai vàng Yên Tử


Mỗi độ xuân về, mai vàng đua nhau khoe sắc tạo thành những điểm vàng nổi bật bên mầu xanh kỳ vĩ của rừng núi Yên Tử. 

Nhắc đến hoa mai, người ta nghĩ ngay đến vùng đất phương Nam. Thế nhưng ít người biết rằng trên đỉnh non thiêng Yên Tử có một rừng “Đại lão mai vàng” quý hiếm với hàng trăm năm tuổi, vẫn đều đặn trổ hoa mỗi dịp xuân về...Rừng “Đại lão Mai vàng” được phân bố chủ yếu quanh khu vực núi Yên Tử. Theo đánh giá ban đầu của Viện Nghiên cứu Rau quả, mai vàng Yên Tử sống trong nền khí hậu nhiệt độ thấp về mùa đông nên đã tạo ra sự khác biệt về mặt hình thái và hương thơm. Mai vàng Yên Tử thường có rễ len lỏi ở các khe đá, sống thành quần thể rừng, ít hoa, có mầu xanh hơn so với hoa mai phía Nam. Ước định tuổi của khu rừng mai này vào khoảng hơn 700 năm, trùng với sự kiện vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con, để về Yên Tử tu hành (năm 1285-1288). Rất có thể rừng mai vàng Yên Tử là do vua Trần Nhân Tông trồng khi mới tu hành. Vì thế, mai vàng Yên Tử không chỉ đơn thuần mang vẻ đẹp của loài hoa bình thường mà còn có ý nghĩa lịch sử và nhân văn. 


Rừng núi Yên Tử có hệ thực vật phong phú, trong đó có những cây mai quý hiếm với niên đại hàng trăm năm tuổi. 




Mai vàng Yên Tử sống trong nền khí hậu có nhiệt độ thấp về mùa đông nên đã tạo ra sự khác biệt về mặt hình thái và hương thơm. 



Mai vàng Yên Tử ít hoa và có mầu xanh hơn so với hoa mai phía Nam. 



Những cành mai cổ thụ, khẳng khiu ước định tuổi vào khoảng hơn 700 năm. 



Mỗi độ xuân về, những cành mai vàng phía sau chùa Hoa Yên nở rộ, tô thêm vẻ đẹp kỳ vĩ chốn non thiêng. 


Mai vàng khoe sắc bên núi rừng Yên Tử. 


Đến nay, mai vàng Yên Tử đã được bảo tồn và nhân giống, trồng tại các vườn ươm. Trong ảnh: Các chuyên gia Viện Nghiên cứu Rau quả kiểm tra giống mai vàng Yên Tử được nhân giống tại vườn. 

Theo báo Quảng Ninh





Linh sam 86 trên gỗ